Sách Giải Bài Tập và SGK

Bài mẫu 4: Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà

Bài mẫu 4:

Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà

- Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ông.

- Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù)

-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.

- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, ... chất mun”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao động luôn gắn bó với nghề

- Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”

- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.

- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.

- Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc ... xuống dòng”, ...

- Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:

   + Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,

   + Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luận phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”

   + Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, ...

- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.

- Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.

- Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹo vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là vẻ đẹp của những người lao động bình dị.

   Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.

   Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.

   Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.

   Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.

   Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưa sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.

   Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.

   Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.

   Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.

   Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

   Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn của cái tuyệt mĩ. Cả cuộc đời ông là hành trình tìm kiếm vẻ đẹp toàn bích của cuộc đời và thiên nhiên. Đó chính là sợi dây chỉ đỏ xuyên suốt chi phối toàn bộ sáng tác của ông. Mặc dù vậy trước và sau cách mạng ta cũng có thể thấy sự chuyển biến lớn trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Sau cách mạng nhân vật đánh dấu sự đổi mình ấy chính là người lái đò Lai Châu trong tùy bút Người lái đò sông Đà.

   Người lái đò không được nêu rõ tên mà chỉ được Nguyễn Tuân gọi bằng cái tên chung ông lái đò Lai Châu, tuổi đã ngoài 70 cả cuộc đời gắn liền với con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình. Ngoại hình của người lái đò chỉ được Nguyễn Tuân phác họa bằng những nét hết sức ngắn gọn “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.. Chỉ với những lời giới thiệu hết sức ngắn gọn, nhưng ta cũng có thể thấy được chân dung của một con người cả đời gắn bó với thiên nhiên, con người nơi đây.

   Sau những nét vẽ phác họa, Nguyễn Tuân đi sâu vào sự từng trải, tay nghề điều luyện tài ba của ông trong một lần vượt thác sông Đà. Sông Đà là con sông đầy hiểm ác, với những cái bẫy chết người dụ những người lái đò sập bẫy. Nhưng dù sông Đà có thâm hiểm, xảo quyệt bao nhiêu thì bằng sự nhanh nhẹn, dũng cảm của mình, ông lái đò vẫn bình tĩnh đưa mình và những người khác vượt qua sông Đà thành công. Cả cuộc đời gắn bó với sông Đà, nên số lần ông vượt qua con sông này đã nhiều vô số kể. Ông đi trên sông Đà, lái lướt chẳng khác nào người ta đi bộ trên đất. Với ngòi bút miêu tả sinh động, Nguyễn Tuân đã tái hiện hoàn chỉnh một lần ông lái đò vượt thác. Sông Đà bày binh bố trận với những cửa tử, cửa sinh khác nhau, mà cửa tử nhiều hơn cửa sinh. Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò đều biến đổi linh hoạt phương thức tác chiến, khi đè sấn lên thác mà đi, khi lại chặt đôi sóng mà tiến,… Dưới sự điều khiển của ông lái đò, con thuyền vun vút lao đi, lấn lên phía trước. Nhưng không phải lúc nào ông cũng dành thế chủ động, đôi khi những đòn đánh tỉa thâm hiểm cũng làm ông lái đò bệch mặt. Nhưng điều đó vẫn không làm ông nao núng tinh thần, bình tĩnh, chủ động linh hoạt , ông biến hóa đường đi, tay lái để tiếp chiêu của chúng, vượt qua cửa tử làm cho thạch trận tiu ngỉu ở phía sau.

   Người lái đò không chỉ thông thạo, tài năng lái đò xuất chúng mà con hết sức hiên ngang, bình thản đối đầu với sông Đà. Ông coi đó như một niềm vui sống trong cuộc đời mình. Ông tâm sự, ông không thích chèo đò ở những nơi bằng phẳng, những nơi đó khiến chân tay ông dại đi, cơ thể ủ rũ và buồn ngủ. Đối với ông gềnh thác vừa là bạn, vừa là thử thách ông luôn khao khát muốn vượt qua. Cũng chỉnh bởi vậy nên khi phải đối mặt với con sông vô cùng hung bạo, một sống một chết những ông không hề lo lắng, sợ hãi, mà luôn bình tĩnh, chủ động, tinh thần sảng khoái tỉnh táo để chỉ huy con tàu vượt qua khỏi dòng thác dữ.

   Vẻ đẹp nổi bật nhất ở ông lái đó chính là mang phong thái của người nghệ sĩ tài hoa. Đối với ông lái đò tài hoa không giống như Huấn Cao với những nét chữ đẹp mà bất cứ ai cũng muốn được để trong nhà mà tài hoa ở đây chính là trong nghệ thuật lái đò của ông – “tay lái ra hoa”. Sông Đà là con thủy quái vô cùng ghê gớm, ở bất cứ trùng vi thạch trận nào cũng phô trương sức mạnh nhằm đoạt lấy tính mạng của người lái đò. Trong trùng vi thứ nhất, chúng phô diễn sức mạnh đá, sóng, nước, nhằm dồn ông vào thế yếu. Tiếp đến trùng vi thạch trận thứ hai chúng biến hóa khôn lường, cửa tử nhiều mà chỉ có duy nhất cửa sinh một lần nữa muốn đoạt mạng người lái đò. Trùng vi thạch trận cuối cùng chúng lại càng tỏ ra hung hãn hơn, sóng, đá, nước lăm le tiến công, nước cuồn cuộn, kêu ùng ục chỉ chờ ông lái đò lơ đễnh là dồn đến. Nhưng bằng kinh nghiệm dạn dày, bằng kĩ thuận lái điêu luyện như một người nghệ sĩ ông lái đò đã bình tĩnh , mọi giác quan được phối hợp linh hoạt, nhịp nhàng đã giúp ông vượt qua mọi chướng ngại, mọi cửa tử để về bến an toàn.

   Cuối tác phẩm hình ảnh ông lái đò hiện lên ở vẻ đẹp của bề sâu nhân cách, thể hiện một tấm lòng thiết tha sâu nặng với quê hương. Nhưng năm tháng chiến tranh ác liệt, ông sống ở rừng nhưng cũng không một ngày xa cách con sông đà. Cho đến những ngày hòa bình lập lại, tình yêu ấy vẫn không hề thay đổi. Ông tự hào kể với mọi người về việc trở một đoàn chuyên gia Nga đi khảo sát tình hình. Ông tự hào vì đã góp một phần sức lực nhỏ bé cho quê hương, đất nước.

   Từ Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà hơn nữa còn thấy được sử chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người của ông. Nguyễn Tuân không còn đi tìm vẻ đẹp của những con người của một thời vang bóng, mà phát hiện vẻ đẹp đó ngay tại đây, ngày trong cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của ông. Họ - những con người lao động bình dị, thậm chí vô danh chính là những người đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.

   Với "SôngĐà" Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông núi Tây Bắc. Và "Người lái đò Sông Đà", một trong 15 bài tùy bút của kiệt tác "Sông Đà" ngào ngạt hương sắc như một cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng đầy chất thơ đồng hiện trong bài tùy bút là hình tượng con sông Đà và hình ảnh người lái đò, đúng là "mười phân vẹn mười".

   Từ "Vang bóng một thời" đến "Sông Đà", một hành trình 20 năm có lẻ, cụ Nguyễn đã "xê dịch" để đi tìm thứ "vàng mười" còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây. Và một trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết "một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ". Ấn tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận tùy bút "Người lái đò Sông Đà".

   Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý" (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái "một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian". Trong ấm trà pha ngon, cụ đã "nhận thấy có mùi và một vị triết lí" (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện "những cái hoài bão tung hoành của một đời con người"( Chữ người tử tù)... Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bấc) có "tay lái ra hoa". Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.

   Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên trong tầm vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đòkhác, ông lái đò sông Đà này có "tay lái ra hoa"đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lẽn chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng".

   Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ồng lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn thủy chiến. Chất tài hoa nghộ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ớ trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện" liều mạng xông vào "đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền". Ông đã bình tĩnh "hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng". Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc "bóp chặt lấy hạ bộ" đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng "hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái", tiếng chỉ huy của ông vẫn "gọn ngắn tỉnh táo" đưa con thuyền thoát hiểm. Thật là cao cường biết bao!

   Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: "Dóng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò tấn công ngay "nắm chặt được bờm sóng" cho con thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Thằng đá tướng thất bại thảm hại "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".

   Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết". Thần sông còn bố trí "bọn đá hậu vệ" của con thác hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.

   Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Vói niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần sông, thần đá nơi thác ghềnh Đà Giang cả cái kho ngôn từ giàu có của mình, và vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội hoạ, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật v.v... Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa... hấp dẫn lạ thường.

   Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những lúc ngừng chèo nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sông, thần đá, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chco, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi "cửa ải nước tướng dữ quân tợn" vừa rồi. Rất ung dung và thanh thản, ông lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá dầm xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.

   Tùy bút "Người lái đò Sông Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyên Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người, đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dòng cảm xúc lai láng. Ông lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân vãn. Trên cái mênh mang của "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh", và giữa lớp lớp trùng vây thạch trận "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuộn luồng gió gùn ghè", ta thấy ông lái đò người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông đẹp quá; một vẻ đẹp Tây Bắc như đang "đề thơ vào sông nước" Đà Giang.